Bối cảnh Nhật Bản xâm lược Thái Lan

Hakkō Ichiu

Nguồn gốc từ cuộc xâm lược Thái Lan của Nhật Bản là chịu ảnh hưởng từ nguyên tắc hakkō ichiu (八紘一宇, Bát hoành nhất vũ, nghĩa là Thế giới chung một mái nhà) của Tanaka Chigaku vào cuối thế kỷ XIX.[1] Tanaka giải thích nguyên tắc này với hàm ý là vương quyền được ban hành một cách tuyệt diệu và mở rộng cho đến khi hợp nhất toàn thế giới. Trong khi Tanaka nhìn thấy kết quả này xuất phát từ quyền lãnh đạo về mặt tinh thần của Thiên hoàng, những người theo chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản đã sử dụng tư tưởng này trong điều kiện giải phóng châu Á thoát khỏi ách thống trị của thực dân phương Tây và thiết lập Nhật Bản trở thành nước có ảnh hưởng hàng đầu trong khu vực Đông Á.[2] Khái niệm này đã trở thành biểu hiện trong Trật tự mới ở Đông Á (東亜新秩序, Tōa Shin Chitsujo?).

Năm 1940, khái niệm này được mở rộng bởi Thủ tướng Konoe Fumimaro khi ông tìm cách tạo ra Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á, bao gồm Nhật Bản, Mãn Châu, Trung Quốc và một phần của khu vực Đông Nam Á. Dựa theo tuyên truyền của Nhật là nhằm thiết lập một trật tự quốc tế mới tìm kiếm "sự thịnh vượng chung" cho các nước châu Á mà sẽ chia sẻ sự thịnh vượng và hòa bình, tự do khỏi ách thuộc địa và sự thống trị của phương Tây dưới sự bảo trợ của một nước Nhật Bản nhân từ.[3] Đơn vị 82 Tập đoàn quân Đài Loan (lập kế hoạch tấn công phương Nam) được thành lập vào năm 1939 hoặc 1940 nhằm biến điều này thành hiện thực. Trong giai đoạn lập kế hoạch sau cùng, đơn vị được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hayashi Yoshihide.

Mở đầu cuộc xâm lược

Là một phần của việc giải phóng Đông Nam Á thoát khỏi ách thực dân phương Tây, quân đội Nhật Bản đã lên kế hoạch xâm chiếm Mã LaiMiến Điện. Để hiện thực hóa điều này, họ cần phải sử dụng các hải cảng, đường sắt, sân bay của Thái Lan. Họ không muốn xung đột với quân đội Thái Lan, vì điều này sẽ trì hoãn sự xâm nhập và làm giảm đáng kể các yếu tố bất ngờ.[4] Kế hoạch của người Nhật được người Đức xem là khá hữu ích trong việc chuyển hướng lực lượng quân sự của Anh, và do đó giúp đỡ nước Đức trong cuộc xung đột của họ.[5]

Thủ tướng Thái Lan Phibun Songkhram

Thái Lan có một quân đội kỷ luật nghiêm minh và trong năm 1940-1941 đã xâm chiếm nước láng giềng Liên bang Đông Dương để phục hồi các tỉnh bị mất trong cuộc chiến tranh Pháp-Thanh 1884-1885. Người Nhật cũng muốn tận dụng các hải cảng và căn cứ không quân ở Đông Dương nên đóng vai trò là nhà đàm phán để hòa giải giữa người Pháp và người Thái vào ngày 31 tháng 1 nam 1941.[6] Là một phần của quá trình, các cuộc thảo luận bí mật đã được tổ chức với Thủ tướng Thái Lan Phibun Songkhram, theo đó thì quân đội Nhật yêu cầu được tự do đi lại qua Thái Lan. Phibun đã phản ứng một cách tích cực, nhưng hành động sau này của ông cho thấy ông có thể còn do dự vì đã ký kết Hiệp ước không xâm phạm Anh-Thái vào ngày 12 tháng 6 năm 1940. Đến tháng 2, người Anh bắt đầu nghi ngờ phía Nhật đã lên kế hoạch tấn công các thuộc địa của mình ở Đông Nam Á và lo ngại rằng họ có thể thiết lập các căn cứ ở Thái Lan vĩnh viễn.[7]

Tình hình mà Phibun phải đối mặt là Pháp đã bị Đức và Anh đánh bại trong những cuộc giao tranh ác liệt trên mặt trận phía Tây; Hoa Kỳ về sau lại đứng trung lập trong cả hai cuộc chiến tranh ở châu Âu và cuộc chiến tranh Trung-Nhật; Nhật Bản tại thời điểm đó là một siêu cường với sự tăng cường lực lượng vũ trang tại Đông Dương. Phibun có thể phải cân nhắc rằng mình có rất ít sự lựa chọn, khi quân đội của ông khó mà đánh bại Nhật Bản một mình. Sự kiện Thái Lan gây hấn chống lại Đông Dương vào năm 1940 đã gây không ít khó khăn cho chính phủ Hoa Kỳ nhằm ủng hộ Phibun.[8]

Từ giữa năm 1941, Phibun đã yêu cầu Anh và Mỹ bảo đảm sự hỗ trợ hiệu quả nếu Thái Lan bị xâm chiếm. Nếu cả Anh hay Mỹ có thể làm được, mặc dù Thủ tướng Anh Winston Churchill đã đồng ý đưa ra lời cảnh báo tới Nhật Bản rằng một cuộc xâm lược vào một vương quốc Đông Nam Á sẽ dẫn tới sự tuyên chiến của nước Anh. Tuy vậy người Mỹ lại không thể ủng hộ đề xuất này và nước Anh đã không có sự chuẩn bị khi đưa ra lời tuyên chiến một mình. Cho đến tháng 8, Anh và Mỹ liền đưa ra chế tài nghiêm khắc đối với Nhật Bản. (Để biết thêm thông tin chi tiết, xem bản ghi chú Hullbản ghi nhớ McCollum.) Người Nhật đã cố gắng để chấm dứt hình thức chế tài bằng cách hứa hẹn sẽ không xâm phạm Thái Lan và rút quân khỏi Đông Dương, chu cấp cho người Mỹ để họ rút sự hỗ trợ cho Trung Quốc.[5] Đề xuất này đều không được cả hai nước chấp nhận vì tác động của nó đối với Trung Quốc.

Những ngày cuối cùng

Phi đội số 1 Không lực Hoàng gia Anh Lockheed Hudson tại Kota Bharu vào năm 1941

Vào cuối tháng 11, người Anh nhận thấy những dấu hiệu của một cuộc tấn công từ phía Nhật có thể xảy ra trên đất Thái vì sự gia tăng nhanh chóng của quân đội Nhật ở Đông Dương.[9] Vào ngày 1 tháng 12 năm 1941, Thủ tướng Nhật Bản Tōjō Hideki nói rằng ông không chắc chắn lập trường của phía Thái Lan khi cho phép quân Nhật tự do qua lại lãnh thổ của mình, nhưng hy vọng có thể tránh được một cuộc đụng độ giữa hai bên.[10] Các cuộc đàm phán tiếp theo diễn ra giữa đại diện ngoại giao của Nhật là Tamara và Phibun vào ngày 2 tháng 12. Phibun đã chuẩn bị tìm cách khác nếu Nhật Bản xâm chiếm bán đảo Kra, nhưng muốn họ tránh đi qua vùng đồng bằng Bangkok. Sau những cuộc thảo luận thêm vào ngày 3 tháng 12, Phibun đã đồng ý đoạn đi qua Thái Lan, đổi lại người Thái có thể lấy lại các vùng lãnh thổ được nhượng trong Hiệp ước Anh-Xiêm năm 1909, cũng như Nhà nước Shan của Miến Điện.[11]

Ngày 2 tháng 12, quân đội Nhật Bản đã ban hành lệnh "Trèo lên núi Niitaka", nhằm thiết lập sự chuyển động trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương. Hạm đội xâm lược chính cho Chiến dịch "E" - cuộc xâm lược Mã Lai và Thái Lan - khởi hành từ Tam Á, đảo Hải Nam, Trung Quốc vào ngày 4 tháng 12 năm 1941.[12] Thêm nhiều binh lính và tàu thuyền tham gia hạm đội từ vịnh Cam Ranh, Đông Dương. Trong khi người Nhật đang âm thầm chuẩn bị, thì người Anh và Mỹ đã trình bày rõ ràng sự phản ứng của họ trước việc triển khai quân Nhật và cuộc xâm lược Thái Lan đầy tiềm năng. Cùng ngày đó Thủ tướng Phibun đã đạt được một thỏa thuận với phía Nhật, báo cho người Anh biết rằng Thái Lan sắp bị Nhật Bản xâm chiếm.[13]

Có khả năng người Nhật sẽ xâm lược đất nước ngài. Nếu ngài bị tấn công, hãy tự bảo vệ mình. Việc bảo tồn nền độc lập và chủ quyền thật sự của Thái Lan là mối quan tâm của nước Anh, và chúng ta sẽ xem một cuộc tấn công vào ngài như là một cuộc tấn công vào bản thân chúng ta. - Những lời nhắn của Thủ tướng Winston Churchill gửi cho Nguyên soái Phibun Songkhram.[14]

Vào trưa ngày 6 tháng 12, một trong ba chiếc Lockheed Hudson của Phi đội số 1 Không lực Hoàng gia Anh đang bay trinh sát trên vùng Biển Đông, tình cờ phát hiện vị trí ba chiếc tàu Nhật chạy về hướng tây, rồi khoảng 15 phút sau, nhìn thấy cả một đoàn tàu hộ tống Hạm đội Viễn chinh phương Nam Hải quân Đế quốc Nhật Bản bao gồm một chiến hạm, năm tàu tuần dương, bảy tàu khu trục và 22 tàu vận tải. Một trong hai chiếc mẫu hạm thủy phi cơ thương gia trong đoàn tàu hộ tống là Kamikawa Maru đã phóng một chiếc thủy phi cơ Mitsubishi F1M "Pete" để đánh chặn Hudson, nhưng Hudson đã lảng tránh bằng cách nấp trong những đám mây. Một vài phút sau, một Hudson thứ hai cũng nhìn thấy đoàn tàu hộ tống.[15]

Tham mưu trưởng Không quân Thống chế Sir Robert Brooke-Popham đã được thông báo về việc quan sát ​​lúc 2 giờ chiều. Ông không được phép thực hiện bất kỳ hành động chống lại các đoàn tàu hộ tống vì nước Anh không muốn chiến tranh với Nhật Bản, mục đích của người Nhật vẫn chưa rõ ràng và chẳng có hành động xâm lược nào được thực hiện đối với lãnh thổ của Anh hoặc Thái Lan. Ông đặt lực lượng của mình tại Mã Lai trong tình trạng đề cao cảnh giác và ra lệnh tiếp tục giám sát đoàn tàu hộ tống của quân Nhật.

Khoảng 3 giờ chiều ngày 7 tháng 12, Phó Đô đốc Ozawa Jisaburō đã ra lệnh tuần tra trong khu vực giữa đoàn tàu hộ tống và Mã Lai. Đoàn tàu hộ tống đang ở khoảng cách 100 hải lý tính từ Kota Bharu. Có mưa lớn và tầm nhìn bằng không. Kamikawa Maru và Sagara Maru đã phóng 11 chiếc F1M2 và sáu chiếc Aichi E13A. Khoảng 20 dặm về phía tây tây bắc đảo Panjang vào lúc 8:20 tối, một chiếc E13A1 ZI-26 từ Kamikawa Maru do Thiếu úy Ogata Eiichi lái, phát hiện một chiếc tàu bay trinh sát Consolidated PBY Catalina (W8417) thuộc Phi đội số 205 Không lực Hoàng gia Anh do Chuẩn úy William E Webb lái. Ogata tấn công Catalina từ phía sau, gây thiệt hại và phá hủy máy thu thanh của chiếc tàu bay này. Ogata đã theo dõi Catalina trong 25 phút cho tới khi năm chiếc chiến đấu cơ Nakajima Ki-27 "Nate" từ Phi đội số 1 Không quân Nhật ở Đông Dương bay đến và bắn hạ nó. Webb và phi hành đoàn của ông là những nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Không hay biết gì về vụ việc nên người Anh chẳng dám ra tay hành động. Ogata về sau bị giết chết trong trận chiến biển Coral.[16]

Vào lúc 23:00 ngày 7 tháng 12, người Nhật đã gửi tối hậu thư lên chính phủ Thái cho phép quân đội Nhật Bản tiến vào Thái Lan. Người Thái được cho hai tiếng đồng hồ để trả lời.[17]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhật Bản xâm lược Thái Lan http://www.combinedfleet.com/HainanRS_t.htm http://www.combinedfleet.com/Kamikawa%20Maru_t.htm http://www.combinedfleet.com/Zenyo_t.htm http://www.cpamedia.com/history/thailand_in_shan_s... http://factsanddetails.com/Asian.php?itemid=2534&c... http://inpattayanow.com/2012/11/12/outside-pattaya... http://niehorster.orbat.com/014_japan/41-12-08_ops... http://niehorster.orbat.com/082_thailand/41-12-08/... http://portal.rotfaithai.com/modules.php?name=Foru... http://iseehistory.socita.com/index.php?lay=show&a...